Bài viết
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TƯ THỤC VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP GIÁO DỤC ĐẠI HỌC QUỐC TẾ
TS. Trần Văn Hùng, Trường Đại học Duy Tân
Trải qua 25 năm hình thành và phát triển, các trường đại học tư thục (ĐHTT) Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của đất nước nói chung, ngành giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) nói riêng. Tuy nhiên, hệ thống ĐHTT Việt Nam còn nhiều tồn tại và hạn chế cả về quy mô và chất lượng. Do đó, để góp phần thực hiện tầm nhìn phát triển giáo dục đại học (GDĐH) Việt Nam đến năm 2030 trong bối cảnh cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 và cạnh tranh GDĐH
1. Quá trình ra đời loại hình trường đại học tư thục ở Việt Nam sau năm 1975
Năm 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã hoạch định đường lối đổi mới toàn diện đất nước trên mọi lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực GD&ĐT. Từ đường lối đổi mới của Đảng, một số tổ chức và cá nhân đã chuẩn bị các đề án xin mở cơ sở GDĐH ngoài công lập (NCL). Năm 1988, Bộ GD&ĐT cho phép xây dựng thí điểm Trung tâm Đại học dân lập (ĐHDL) Thăng Long (nay là Trường ĐH Thăng Long) tại Hà Nội.
Năm 1993, Ban Chấp hành trung ương (BCHTW) Đảng lần thứ 4 (khóa VII) ban hành Nghị quyết số 04-NQ/HNTW về tiếp tục đổi mới sự nghiệp GD&ĐT trong đó khuyến khích mở các trường lớp dân lập và cho phép mở trường lớp tư thục ở GD mầm non, GD chuyên nghiệp và GDĐH. Thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/HNTW, năm 1994, Thủ tướng Chính phủ đã cho phép thành lập 05 trường (ĐHNCL đầu tiên của Việt Nam với tên gọi ĐHDL gồm 03 trường ở thành phố Hà Nội: trường ĐHDL Thăng Long, trường ĐHDL Phương Đông và trường ĐHDL Đông Đô; 01 trường ở thành phố Đà Nẵng: trường ĐHDL Duy Tân; 01 trường ở thành phố Hồ Chí Minh: trường ĐHDL Ngoại ngữ - Tin học. Các trường ĐHDL hoạt động theo Quy chế tạm thời trường ĐHDL được ban hành tại Quyết định số 196/QĐ-TCCB ngày 21/1/1994 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT.
Năm 1996, Hội nghị BCHTW Đảng lần thứ 2 (khóa VIII) đã ban hành nghị quyết về định hướng chiến lược phát triển GD&ĐT trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000. Nghị quyết đã nêu rõ: “Phát triển các trường bán công, dân lập ở những nơi có điều kiện, từng bước mở các trường tư thục ở một số bậc học như: mầm non, phổ thông trung học (cấp III), trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, đại học”. Triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng, giai đoạn 2000 – 2005, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định thành lập 05 trường ĐHDL. Các trường ĐHDL hoạt động theo Quy chế trường ĐHDL do Thủ tướng Chính phủ ký ban hành ngày 18/7/2000 tại Quyết định số 86/2000/QĐ-TTg.
Ngày 14/06/2005, Quốc hội khóa XI thông qua Luật GD. Tại Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02/08/2006 của Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật GD, loại hình trường ĐH bán công và dân lập bị xoá bỏ trên văn bản, chỉ còn một loại hình trường ĐHNCL duy nhất là trường ĐHTT. Thực hiện Luật GD, ngày 17/01/2005 Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của trường ĐHTT tại Quyết định số 14/2005/QĐ-TTg (Quy chế này được thay thế bằng quy chế mới tại Quyết định số 61/2009/QĐ-TTg ngày 17/04/2009 của Thủ tướng chính phủ). Quyết định số 61/2009/QĐ-TTg đã được sửa đổi và bổ sung tại Quyết định số 63/2011/QĐ-TTg ngày 10/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ. Những văn bản pháp lý này là cơ sở quan trọng cho sự ra đời của 38 trường ĐHTT từ năm 2006 đến nay.
Như vậy, quá trình ra đời loại hình trường ĐHTT Việt Nam trải qua 04 giai đoạn gồm: i) Giai đoạn 1988 – 1993: xác định mô hình trường ĐHNCL ở Việt Nam; ii) Giai đoạn 1994 – 1999: xây dựng và phát triển ĐHNCL theo Quy chế tạm thời trường ĐHDL được ban hành tại Quyết định số 196/QĐ-TCCB ngày 21/1/1994 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT; iii) Giai đoạn 2000 – 2005: xây dựng và phát triển trường ĐHNCL theo Quy chế trường ĐHDL tại Quyết định số 86/2000/QĐ-TTg ngày 18/7/2000 của Thủ tướng Chính phủ; iv) Giai đoạn 2005 đến nay: xây dựng và phát triển trường ĐHTT theo các Quyết định số 14/2005/QĐ-TTg, Quyết định số 61/2009/QĐ-TTg ngày 17/04/2009 của Thủ tướng chính phủ (được sửa đổi và bổ sung tại Quyết định số 63/2011/QĐ-TTg ngày 10/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ).
2.. Những thành tựu và hạn chế của hệ thống đại học tư thục Việt Nam
2.1. Những thành tựu
Trong những năm qua, Chính phủ đã ban hành một số chính sách quan trọng nhằm phát triển GDĐH NCL nói chung, các trường ĐHTT nói riêng. Những chính sách đó đã giúp phát triển về quy mô các trường ĐHNCL. Năm 1987, cả nước có 63 trường ĐH nhưng không có trường ĐHNCL nào; năm 1997, có 15 trường ĐHNCL trong tổng số 62 trường ĐH, chiếm 24.1%; đến tháng 9/2009, có 44 trường ĐHNCL trong tổng số 150 trường ĐH, chiếm tỷ lệ 29.3% [1]. Đến nay, Việt Nam có 60 trường ĐHNCL chiếm tỷ lệ khoảng 25.00% trong tổng số trường ĐH, HV của cả nước (235 trường ĐH, HV - gọi chung là các trường ĐH, không tính các trường thuộc khối An ninh – Quốc phòng [6]). Hiện còn một vài trường ĐHDL đang trong quá trình chuyển đổi sang mô hình ĐHTT nên trong bài viết này chúng tôi gọi chung 60 trường ĐHNCL là trường ĐHTT. 60 trường ĐHTT của Việt Nam có mặt ở 29/63 tỉnh/thành, miền Bắc có 23 trường, miền Trung – Tây nguyên có 12 trường và miền Nam có 25 trường, trong đó thành phố Hà Nội có số lượng nhiều nhất là 13 trường, tiếp đến là thành phố Hồ Chí Minh có 12 trường. Trong 60 trường ĐHTT, có 05 trường có thời gian thành lập gần 25 năm.
Về quy mô SV các trường ĐHTT: chiếm từ 12.0% đến hơn 13.0% trong tổng số SV bậc ĐH của cả nước trong nhiều năm qua (Ví dụ, năm học 2005-2006, cả nước có 1.087.183 SV trong SV ở các trường ĐHTT là 138.302, chiếm tỷ lệ 12.71%; năm học 2016 – 2017 có 243.975/1.767.879 SV, đạt tỷ lệ 13.80%); về đội ngũ GV: năm học 2016 – 2017, các trường ĐH trong cả nước có 72.792 GV trong đó có 15.158 GV thuộc các trường ĐHTT, chiếm tỷ lệ 20.80% [5].
Về cơ sở vật chất, xét trên toàn hệ thống, đây là điểm mạnh của các trường ĐHTT, kể cả khi so sánh với cơ sở vật chất của một số trường ĐHCL; về tài chính, tình hình tài chính của các trường ĐHTT được đánh giá là ổn định, được người lao động và các bên liên quan đánh giá khá cao, năm 2016 tổng nộp ngân sách nhà nước của 43 trường đạt hơn 111 tỷ đồng [2].
Với những thành tựu trên có thể khẳng định rằngsau gần 25 năm phát triển, các trường ĐHTT đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của GDĐH Việt Nam, cung cấp hàng trăm ngàn nhân lực có trình độ phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đóng góp tài chính và giảm bớt gánh nặng đáng kể cho ngân sách nhà nước (Ví dụ, mỗi năm Nhà nước chi cho mỗi SV trường ĐHCL khoảng 25 triệu đồng/năm thì với 243.975 SV các trường ĐHTT trong năm học 2016 – 2017 số tiền nếu phải chi là hơn 6000 tỷ đồng/năm).
2.2. Những hạn chế và bất cập
Theo Bộ GD&ĐT, bên cạnh những điểm sáng về phát triển còn một số trường ĐHNCL “tụt hậu” so với mặt bằng chung của các trường ĐHNCL [2]. Còn theo Hiệp hội Các trường ĐH, CĐ Việt Nam, GDĐH NCL nói chung, trường ĐHTT nói riêng ở Việt Nam có những hạn chế bất cập xuất phát từ yếu tố khách quan là việc triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách cũng như trong công tác quản lý nhà nước, và yếu tố chủ quan là việc thực hiện cam kết nêu trong đề án thành lập trường còn chậm và gặp nhiều khó khăn, một số quy định về tuyển sinh, chế độ tài chính chưa được một số trường tuân thủ đầy đủ; vv….[3].
Dưới góc độ hội nhập quốc tế, hệ thống các trường ĐHTT Việt Nam phát triển không theo xu thế phát triển của các nước có nền GDĐH phát triển trong khu vực. Ví dụ, Nhật Bản có 599 trường ĐHTT trong tổng số 780 trường, chiếm tỷ lệ 76.79%, quy mô SV ĐHTT chiếm 77.6% [8]; Malaysia có 67 trường ĐH (universiti) trong đó có 47 trường ĐHTT, chiếm tỷ lệ 78.33%, quy mô SV chiếm hơn 50% [4]. Về chất lượng, các trường ĐHTT Việt Nam chưa có mặt trong các bảng xếp hạng ĐH có uy tín của thế giới, trong khi đó Malaysia có5 trường ĐHTT được xếp hạng trong bảng xếp hạng QS World 2019, có 11 trường ĐHTT được xếp hạng trong bảng xếp hạng của QS Asia 2018 [7].
3. Giải pháp phát triển đại học tư thục Việt Nam
Hệ thống ĐHTT đóng vai trò ngày càng quan trọng trong hệ thống GDĐH Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh ngân sách công ngày càng khó khăn, Đảng ta đang đẩy nhanh quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết hiện Nghị quyết TW5 (khóa XII) về phát triển kinh tế tư nhân và Nghị quyết TW6 (khóa XII) về tiếp đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Do đó, phát triển hệ thống ĐHTT Việt Nam là yêu cầu cấp bách và cần được thực hiện bởi những giải pháp mang tính đột phá.
Thứ nhất, tăng quy môhệ thống ĐHTT
Để hệ thống ĐHTT Việt Nam phát triển phù hợp với xu thế của khu vực và thế giới, cần thiết phải nâng quy mô đào tạo của hệ thống này lên ít nhất là 40% (hiện mới chỉ ở mức hơn 13%) như đã xác định trong quy hoạch mạng lưới các trường ĐH Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020(chỉ tiêu này đã không còn được đề cập trong bản quy hoạch được điều chỉnh năm 2013).
Để thực hiện giải pháp này, các cơ quan quản lý nhà nước về GD cần triển khai triệt để các chính sách ưu đãi đối với trường ĐHTT đã được nêu trong nhiều nghị quyết của Đảng, Nhà nước và Chính phủ, đặc biệt là ưu đãi về đất đai và tài chính. Mặt khác, cần sắp xếp lại hệ thống trường ĐHCL theo hướng tinh gọn và hiệu quả. Theo đó, sắp xếp lại các trường ĐHCL có chất lượng thấp, giảm quy mô đào tạo của 02 ĐH quốc gia, 03 ĐH Vùng và 15 trường ĐH khác thuộc nhóm ĐH nghiên cứu trọng điểm quốc gia vì đây là những ĐH được quy hoạch với nhiệm vụ nghiên cứu là chính.
Hai là, quy hoạch và đầu tư phát triển một số trường ĐHTT trọng điểm
Có nhiều trường ĐH có vị trí trong các bảng xếp hạng các trường ĐH ở cấp độ khu vực và thế giới như là sự khẳng định về chất lượng và năng lực cạnh tranh, hội nhập của toàn hệ thống GDĐH Việt Nam cũng như của từng trường. Để thực hiện điều này, Chính phủ cần quy hoạch các trường ĐH có khả năng được xếp hạng khu vực và thế giới để giao nhiệm vụ và đầu tư lớn về mặt tài chính trong đó có trường ĐHTT vì hiện nay có một số trường ĐHTT có số năm thành lập cao trong hệ thống ĐHTT Việt Nam đã tạo dựng được thương hiệu trong và ngoài nước như Trường ĐH Duy Tân, Trường ĐH Thăng Long hay Trường ĐH Nguyễn Tất Thành, vv…, một số trường ĐHTT mới được thành lập có tầm nhìn đầy tham vọng và có tiềm năng lớn về nguồn lực để thực hiện tầm nhìn đó.
Ba là, trao quyền tự chủ tối đa cho các trường ĐHTT
Trao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm tối đa cho các các trường ĐHTT để các trường chủ động cao trong cạnh tranh với các ĐH nước ngoài và thích ứng kịp thời với những chuyển biến mà cuộc CMCN 4.0 tạo ra. Hiện nay, các trường ĐHTT đang bị hạn chế tốc độ phát triển bởi nhiều quy định đặc biệt là trong lĩnh vực tuyển sinh và phát triển ngành nghề đào tạo.
Bốn là, đối với các trường ĐHTT
Các trường ĐHTT Việt Nam cần phải khẳng định như là một chủ thể quan trọng trong việc thực hiện tầm nhìn, chiến lược phát triển đất nước cũng phát triển GDĐH quốc gia trong bối cảnh mới là cuộc CMCN 4.0. Nghĩa là, các trường ĐHTT Việt Nam phải luôn xác định cần phải cạnh tranh không chỉ với các trường ĐH trong hệ thống ĐHTT mà còn là với các trường ĐHCL có uy tín trong nước và các trường ĐH có uy tín ở khu vực Châu Á. Muốn vậy, các trường ĐHTT Việt Nam cần thiết lập lại tầm nhìn và mục tiêu phát triển mới theo định hướng hội nhập quốc tế và cạnh tranh với các ĐH của khu vực và trên thế giới trong đó có mục tiêu đạt được vị trí xếp hạng ĐH khu vực và thế giới, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp chuyển đổi một cách căn bản, toàn diện trên tất cả các phương diện.
4. Kết luận
Qua gần ¼ thế kỷ hình thành và phát triển, có thể khẳng định rằng hệ thống ĐHTT có đã tạo dựng được nền tảng quan trọng để phát triển một cách mạnh mẽ, góp phần thực hiệnmục các mục tiêu quốc gia đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Báo cáo số 760 /BC-BGDĐT ngày 29/10/2009 về sự phát triển của hệ thống giáo dục đại học, các giải pháp đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo.
[2] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017), Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu các trường đại học ngoài công lập, Tp. Hồ Chí Minh.
[3 ] Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam (2013), Báo cáo tổng kết 20 năm phát triển mô hình giáo dục đại học ngoài công lập ở Việt Nam (1993 – 2013).
[4] https://www.moe.gov.my/index.php/en/
[5] https://moet.gov.vn/thong-ke/Pages/thong-ke.aspx
[7] https://www.topuniversities.com/
[8] Ministry of Education, Culture, Sports, Science and Technology (2011), Higher Education in Japan, Tokyo.
*****************
TS. Trần Văn Hùng, Trường Đại học Duy Tân, 254 Nguyễn Văn Linh, Tp. Đà Nẵng, ĐT: 0989.638.374, email: tranhung2050@gmail.com
» Tin mới nhất:
- Bản tin pháp luật số 11 (21/02/2022)
- Bản tin pháp luật số 10 (31/12/2021)
- Bản tin pháp luật số 09 (15/06/2021)
- Bản tin pháp luật số 8 (02/03/2021)
- Bản tin pháp luật nội bộ số 7 (13/01/2021)
» Các tin khác:
- XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC MALAYSIA – BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM (15/10/2018)
- CALCULATIONS OF THE RACAH PARAMETER B FOR ... (20/04/2018)
- NHẬN DẠNG BIỂN BÁO GIAO THÔNG VIỆT NAM VỚI THUẬT TOÁN PCA KẾT HỢP LDA (13/04/2018)
- TÍNH TOÁN THAM SỐ RACAH B CHO CÁC ION KIM LOẠI CHUYỂN TIẾP PHA TẠP TRONG ALUMINATE VÀ SILICATE (14/11/2017)
- GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VĂN HÓA CHẤT LƯỢNG TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TƯ THỤC VIỆT NAM (03/08/2017)
- CÁC CÁCH TIẾP CẬN TRONG XÂY DỰNG VĂN HÓA CHẤT LƯỢNG CỦA GIÁO DỤC ĐẠI HỌC THẾ GIỚI (15/11/2016)
- KHẢO SÁT QUÁ TRÌNH TRUYỀN NĂNG LƯỢNG TỪ ION.... (21/10/2016)
- LÃNH ĐẠO TRONG XÂY DỰNG VĂN HÓA CHẤT LƯỢNG Ở CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC (06/04/2016)
- XÂY DỰNG VĂN HÓA CHẤT LƯỢNG TRONG CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở CHÂU ÂU VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI KHỐI ASEAN (13/08/2015)
- KÝ TỰ SỰ TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM TRUNG ĐẠI - NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT (15/12/2014)